Mùa Len Trâu (Buffalo Boy hay Gardien de Buffles) là bộ phim đầu tay của đạo diễn người Mỹ gốc Việt Nguyễn Võ Nghiêm Minh. Nội dung phim dựa trên tác phẩm Mùa Len Trâu trong tập truyện Hương Rừng Cà Mau của cố nhà văn Sơn Nam, kể về cuộc sống của những người nông dân miền Nam đầu thế kỷ 20. Đây là sản phẩm hợp tác của Việt Nam, Pháp và Bỉ với kinh phí hơn 1 triệu USD. Phim được khởi quay vào năm 2003 và công chiếu vào năm 2004, tức 2 thập kỷ trước, nên khi xem bạn sẽ thấy chất lượng hình ảnh không được tốt lắm. Tuy vậy, với tôi điều đó không ảnh hưởng nhiều đến việc thưởng thức. Thậm chí, nó còn mang đến nhiều cảm xúc hơn bởi cái sự cũ kỹ và tối tăm đó lại thể hiện đúng chất mộc mạc của miền Tây, đưa tôi trở về thời cha ông sống cực khổ trên những cánh đồng mênh mông bất tận.

Làm sống lại một thời quá vãng
Mùa Len Trâu mở đầu bằng giọng kể chuyện đều đều, mộc mạc và rành mạch của chính tác giả Sơn Nam. Cảnh ở đầu phim là một đứa trẻ trong lúc làm ruộng vớ phải một cọng dây cột vào một vật nặng. Sau đó chúng ta theo chân chàng trai trẻ 15 tuổi tên Kìm bước vào hành trình len trâu khắp vùng bảy Núi, hay nói đúng hơn là hành trình của những kiếp người ba chìm bảy nổi. Rồi phim kết thúc bằng việc quay lại cảnh đầu phim, chúng ta nhận ra vật nặng mà đứa trẻ kéo lên được là cái cối xay cột xác cha Kìm.
Trong quá trình sản xuất bộ phim Mùa Len Trâu, nhà văn Sơn Nam đã giải thích về từ “len” với cảm xúc bồi hồi:
“Len” trong tiếng Khmer có nghĩa là đi tự do, “len trâu” có nghĩa là cho trâu đi tự do. Ở đây nước lụt sâu đến bốn thước nước. Người ta ở nơi lụt, người ta không có chỗ ở là phải, và trâu cũng không có chỗ ở. Cho nên nó phải đi đến những vùng đất cao để có cỏ cho nó ăn. Ở nhà tối nó ngủ không được, ngủ với nước sao mà ngủ được, và trưa thì làm sao cho nó ăn, cỏ đâu ra mà cho nó ăn. Người nuôi trâu, chủ nhà có trâu, phải đưa trâu đến vùng đất cao. Làm sao người làm ruộng nuôi trâu? Muốn nuôi trâu thì phải lùa trâu đi. Ngày thường trời nắng, nuôi trâu trong chuồng. Đến ngày trời mưa thì phải lùa trâu đi. Vì vậy cho nên phải đem trâu đi chỗ khác. Đưa trâu đến vùng bảy Núi. Nhưng nó xa nhà mình đến ba bốn chục cây, xa quá sao mà đưa đi. Vì vậy, mình phải đưa nó đi lòng vòng, ăn hết cỏ chỗ này, nước lên, thì đưa trâu sang chỗ khác. Có khi đến ba bốn tháng mới đưa trâu về. Trâu dẫn đi phải có người giữ. Trâu không dẫn đi thì phải mướn người ta giữ. Người nghèo mướn ai bây giờ? Vậy thì để con cái đi giữ nó. Ngày trước trẻ con đi theo con trâu, áo quần không có, mùng mền không có, gạo cơm thiếu, đó là cả một chuyện khó khăn. Vì vậy đối với chúng tôi dân miệt dưới, tôi là dân miệt dưới, đó là một bài học cho thanh niên trở thành người lớn. Nhưng mà trẻ con ở đó không có được đi học. Học với ai. Thằng dốt học với thằng dốt, thằng du côn học với thằng du côn.
Không phải tự nhiên mà con trâu trở thành biểu tượng thân thương trong đời sống và văn hoá của người Việt. Với người nông dân, trâu là người bạn thân thiết và cả hai sống với nhau bằng mối quan hệ cộng sinh. Trâu gắn bó với con người từ thời khai hoang, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ có trâu mà nơi đây biến thành một vùng đồng bằng trù phú và màu mỡ. Vì vậy, người ta luôn nhớ ơn con trâu và tìm mọi cách để làm sao nó có đủ cỏ để ăn.
Ngày nay, hình ảnh con trâu trên những cánh đồng đã trở nên thưa thớt dần. Chúng được thay thế bằng các loại máy móc nông nghiệp hiện đại. Cùng với đó, hình ảnh len trâu qua những cánh đồng ngập nước chỉ còn là quá vãng. Người ta tưởng rằng sẽ không bao giờ thấy được cảnh này lần nữa và nếu không có tác phẩm điện ảnh này chắc người đời sau như chúng ta sẽ không bao giờ biết đến khái niệm len trâu. Thậm chí ngay cả nhà văn Sơn Nam cũng không ngờ được sẽ có người đủ sức chuyển thể truyện ngắn của ông lên màn ảnh. Nhưng đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh đã làm được, bằng cách thuê 350 con trâu để làm sống lại ký ức một thời, khiến tiếng trâu vang động cả vùng gần đồi Tà Pạ.
Tôi rất hãnh diện, vì tác phẩm tôi viết đã gần 50 năm rồi, nhiều anh em tính làm phim, nhưng nghĩ làm hông nổi. Thời buổi này đâu còn trâu, máy cày hết rồi, thành ra tôi để đó coi, chờ xem. May mà có anh Nguyễn Võ Nghiêm Minh, ổng làm sao mà ổng có tiền ổng mướn trâu, thiên hạ sợ quá. Chứ làm sao thằng cha này có tiền mướn ba bốn trăm con trâu để đóng phim, dân làm phim Sài Gòn ngán Nguyễn Võ Nghiêm Minh, tưởng cha này là tỷ phú Việt kiều Mỹ hay gì đó.
Khi nước là ngôn ngữ điện ảnh

Tôi xem Mùa Len Trâu và cảm thấy chua xót không nói nên lời bởi những gì mà cha mẹ, ông bà kể về cuộc sống thời xưa không phải là nói quá. Thậm chí từ những đời trước nữa, cuộc sống khắc nghiệt hơn rất nhiều. Nhưng người ta chấp nhận cái sự khắc nghiệt đó như một lẽ thường bởi không còn lựa chọn nào khác. Con người sống không thể thiếu nước, nhưng nước trong Mùa Len Trâu nhiều đến mức ám ảnh. Sự ám ảnh đó dày vò con người đến mức câu nói “chết không có chỗ chôn” trở thành sự thật. Kiếp người thật chênh vênh khi Kìm phải chôn xác cha mình dưới nước sâu cùng với chiếc cối đáng giá bằng cả gia tài của gia đình ông Hai bà Hai để xác không bị nước cuốn đi, khi ông Hai và Kìm phải treo xác bà Hai lên cao rồi đợi đến khi đào được đất mới chôn cất bà đàng hoàng. Nhưng nước cũng mang lại sự sống. Nó là cái vòng tuần hoàn bất tận của tự nhiên khi từ những gì mục rã ra trong nước, cá sinh sôi và lúa nảy mầm. Có nước mới tắm được cho trâu và cỏ mới mọc xanh tươi, dồi dào để trâu ăn.
Với đạo diễn Nguyễn Võ Nghiêm Minh, ông còn kiến giải hình ảnh của nước trong truyện ngắn theo một cách khác. Nước còn “là biểu tượng của thời gian trôi qua, thời gian mang tính chất lịch sử đang trên đà bị mất đi, lối sống của những người chăn trâu mất đi, bởi con trâu được thay thế bằng máy cày”. Lẽ dĩ nhiên nhà văn Sơn Nam không chỉ đồng thuận với cách phóng tác này mà còn cảm thấy hãnh diện, bởi hồn cốt của nguyên tác được giữ vẹn nguyên đồng thời cảnh tượng nước nổi và len trâu biến thành những hình ảnh hùng vĩ.
Thông qua việc khắc hoạ những nỗi khổ của con người khi sống tại vùng đất thiên nhiên khắc nghiệt, Mùa Len Trâu tôn vinh sức sống mạnh mẽ của người dân nơi đây và thay họ cất lên khát vọng về một cuộc sống an lành và đủ đầy. Như cái cách mà nhà văn Sơn Nam nói về việc “trả nợ tinh thần” cho đồng bào ở vùng sông nước.
Tôi hãnh diện, được thấy cái phim này, đối với đồng bào ở đồng bằng sông Cửu Long, tôi đã trả được một món nợ tinh thần. Tôi là một đứa con có hiếu với dân ở dưới. Tôi hy vọng các anh có phương tiện, phải làm sao chiếu ở dưới cho nhiều, và băng video in ra bán rẻ cho dân ở dưới coi. Họ sẽ rất hài lòng, họ thấy việc hợp tác giữa Việt, Pháp và Bỉ có kết quả rất lớn.
Tôi yêu Mùa Len Trâu không chỉ bởi nó sở hữu một cấu trúc điện ảnh tài tình, mà còn là tư liệu văn hoá quý giá để những gì tốt đẹp nhất có thể sống mãi. Đặc biệt hơn cả, nó được tạo nên từ một con người xa xứ với niềm đam mê điện ảnh thuần khiết, một tiến sĩ vật lý chấp nhận giảm bớt công việc chuyên môn chỉ để hiện thực hoá ước mơ làm phim. Mùa Len Trâu đã chứng minh được Nguyễn Võ Nghiêm Minh là một người thông minh và tài năng không chỉ ở lĩnh vực khoa học mà còn trong địa hạt của môn nghệ thuật thứ bảy.






Leave a reply to kyduyentran Cancel reply