“We accept the reality of the world with which we’re presented. It’s as simple as that.”

“Chúng ta chấp nhận thực tế của thế giới mà chúng ta chứng kiến. Chỉ đơn giản như vậy thôi.”

Đây là câu nói của nhân vật Christof (Ed Harris) – người tự xem mình như một vị Chúa trong The Truman Show.

Nhưng chúng ta có chấp nhận dễ dàng như vậy? Đó cũng là điều mà nhân vật chính Truman Burbank (Jim Carrey) phải đối mặt và tìm ra câu trả lời.

Khi cuộc đời chỉ là một màn kịch

Trước cả khi series Black Mirror Love, Death & Robot mang đến cho chúng ta những câu chuyện với ý tưởng sáng tạo và táo bạo, phơi bày những mặt tối của xã hội, công nghệ và bản chất con người, năm 1998, đạo diễn Peter Weir và biên kịch Andrew Nicol đã tạo ra một tác phẩm điện ảnh với thông điệp đi trước thời đại và không khác gì lời tiên tri về xã hội ngày nay.

Với cốt truyện kiểu Orwellian*, The Truman Show có thể được xem như một bộ phim được lồng trong một bộ phim khác, với nhân vật chính là Truman Burbank và có tới 2 nhóm khán giả: chúng ta – khán giả ngoài đời thực và khán giả trong phim – những người dõi theo cuộc đời Truman từ lúc anh mới ra đời cho đến lúc trưởng thành thông qua một chương trình truyền hình thực tế lớn nhất lịch sử.

Dù chưa xem The Truman Show, chắc hẳn có những bạn đã từng xem qua một đoạn cắt từ phim, với câu thoại nổi tiếng “Good morning, and in case I don’t see ya, good afternoon, good evening, and good night”. Đoạn cắt này, cũng như không khí và sắc thái của toàn bộ bộ phim, định hình nó là một tác phẩm chính kịch hài hước. Đây chính là sự tài tình của biên kịch khi lồng ghép rất nhiều tầng nghĩa sâu sắc về mặt tối của xã hội và bản chất con người trong một bộ phim mang màu sắc tươi vui và đầy châm biếm.

Tính châm biếm hiện diện ở mọi nơi, trong cách đặt tên cho nhân vật chính – Truman (true man) – người duy nhất sống thật trong khi tất cả những người còn lại chỉ là giả tạo; cách đặt tên Seahaven (sea heaven) – thị trấn mà Truman sinh sống không phải là thiên đường mà chỉ như địa ngục giam cầm anh từ nhỏ cho đến lớn. Và khi từng lớp sự thật được bóc tách, cuộc đời êm đềm và hoàn hảo của Truman hoá ra chỉ là một màn kịch. Khao khát thoát khỏi Seahaven để khám phá thế giới ngoài kia bị chôn vùi, người con gái thật sự yêu anh bị đẩy ra xa và mọi nỗ lực thoát khỏi cái phim trường khổng lồ đó bị ngăn chặn bởi Christof – vị đạo diễn tự ban cho mình quyền năng tối thượng cướp đi tự do của người khác và không nhìn nhận anh như một con người thực thụ mà chỉ là một đứa con tinh thần.

Nhưng quyền năng đó có ngăn chặn được tất cả?

Dụ hôn về cái hang của Plato

Trong tập 7 của The Republic (Cộng Hoà), Plato đã dùng một dụ ngôn để bàn về bản chất của công lý. Mở đầu câu chuyện, Socrates (thay lời Plato) kể cho Glaucon về những tù nhân bị nhốt trong một cái hang, đầu và chân đều bị xích nên họ không thể cử động. Phía sau họ là một ngọn lửa bập bùng. Giữa ngọn lửa và các tù nhân là một lối đi nhô lên, và có một bức tường xây dọc theo lối đi ấy. Có những người đi dọc theo bức tường, đem theo đủ các loại bình, tượng cũng như hình thú vật làm từ gỗ, đá, và nhiều chất liệu khác. Tuy vậy, tất cả những gì mà tù nhân có thể nhìn thấy là bóng của chính mình hoặc bóng của nhau. Những đồ vật được mang vào hang cũng chỉ hiển thị như những cái bóng. Đối với các tù nhân, sự thật, không gì khác là những cái bóng của các hình ảnh.

Chuyện gì sẽ xảy ra nếu một trong số các tù nhân được giải phóng? Anh ta sẽ đứng lên, ngoái cổ lại và đi tới, đi về phía ánh sáng và thoát ra khỏi cái hang. Anh ta sẽ phải chịu những cơn đau buốt, mắt anh sẽ chói loà bởi anh đã sống trong bóng tối quá lâu, và thực tại mà anh thấy không còn ở trạng thái cũ. Anh ta sẽ bối rối và bỡ ngỡ, thậm chí có thể nghĩ rằng những cái bóng mới là chân thực, chân thực hơn cả những thứ anh thấy trước mắt. Tuy vậy, anh sẽ dần quen. Anh sẽ lĩnh hội được hình ảnh phản chiếu của con người và những vật khác trong nước, tiếp đến là hình hài của các sự vật, rồi đến mặt trăng, các vì sao, mặt trời, thiên đường và cuối cùng là tự ngẫm về bản thân.

Đây chính là dụ ngôn về cái hang (allegory of the cave) của Plato được Peter Weir kể lại trong bối cảnh hiện đại. Truman Burbank chính là tù nhân thoát ra khỏi cái hang tăm tối. Nhưng cái hang của ở đây không chỉ là thị trấn Seahaven, mà đó còn là cuộc đời của Truman từ trước đến nay và cái xã hội nơi mà con người bị truyền thông thao túng, tự giam cầm chính mình bằng chủ nghĩa tiêu dùng và nuông chiều bản thân bằng những thước phim truyền hình thực tế vượt khỏi giới hạn của đạo đức khi cuộc sống của người khác bị phơi bày hoàn toàn. Và khi Truman thoát ra khỏi Seahaven, anh không chỉ giải phóng bản thân mà còn giải phóng cả những diễn viên và khán giả – những người tù không khác gì Truman.

Các diễn viên xung quanh Truman và toàn bộ khán giả đều nhận thức được bản chất của chương trình thực tế này. Họ nghĩ rằng họ tự do và chính sự tự do đó trao họ quyền quan sát cuộc đời người khác bị đánh cắp. Họ không nhận ra mình cũng là một phần của chương trình đó, và không khác gì hơn những dòng chữ trên kịch bản của Christof. Trong dụ ngôn về cái hang, tù nhân sau khi được giải phóng đã quay trở lại và cố gắng thuyết phục đồng loại rời đi cùng mình. Thế nhưng, họ từ chối đi theo sự dẫn dắt của anh vì họ đã quá quen với việc nhìn thấy những hình ảnh phóng chiếu của thực tế và không tin rằng thế giới ngoài kia mới là thực. Do đó, việc tất cả những người còn lại trong The Truman Show có chấp nhận bước ra khỏi hang giống Truman hay không vẫn là câu hỏi mở. Và có khi chính những khán giả đó cũng chỉ đang cố hoàn thành vai diễn của cuộc đời mình và từ chối bước ra ngoài kia để sống một cuộc đời thật sự ý nghĩa.

*Orwellian: Một tình huống, ý tưởng, hoặc điều kiện xã hội mà George Orwell định nghĩa là mang tính phá hủy đến sự thịnh vượng của một xã hội mở và tự do. Nó biểu thị một thái độ và một chính sách kiểm soát hà khắc, tàn bạo bằng tuyên truyềngiám sátphản thông tinphủ nhận sự thật (cách nghĩ nước đôi), và thao túng quá khứ, bao gồm “vô nhân vị” – một người có quá khứ bị xóa sổ khỏi cơ sở dữ liệu công khai và trí nhớ cộng đồng, được thực hiện bởi các chính phủ đàn áp trong thời hiện đại. 

Leave a comment

Read more