Điều giúp Dune saga mang những giá trị lớn lao không chỉ nằm ở bộ óc của Frank Herbert, mà còn ở tình yêu của ông và người vợ thứ hai – Beverly Ann Stuart. Khi quyển thứ 6 – Chapterhouse: Dune khép lại, Frank Herbert đã dành ra 4 trang để tri ân người vợ quá cố. Ông mở đầu với những dòng ca ngợi sự vĩ đại của Beverly:
Một trong những điều tốt đẹp nhất tôi có thể nói về Bev chính là không có điều gì trong cuộc sống của chúng tôi mà tôi cần phải quên đi cả, thậm chí ngay cả khoảnh khắc cô ra đi. Cô đã trao cho tôi món quà lớn lao nhất của tình yêu – cái chết thanh thản mà cô đã từng nhắc đến với không chút sợ hãi hay nước mắt, khiến cho những nỗi sợ của riêng tôi gần như lu mờ. Còn món quà nào ý nghĩa hơn việc chứng minh cho người khác thấy rằng chúng ta không việc gì phải sợ cái chết.”
Trong 37 năm của cuộc hôn nhân, Beverly là trụ cột chính trong gia đình với thu nhập đến từ công việc viết nội dung quảng cáo cho các cửa hàng bách hoá. Frank gặp Beverly trong lớp Creative Writing tại Đại học Washington vào năm 1946. Lúc bấy giờ họ là những sinh viên hiếm hoi trong lớp có thể bán những gì mình viết và được xuất bản. Frank bán hai truyện ngắn thể loại phiêu lưu cho các tạp chí, một cho Esquire và một cho Doc Savage. Beverly bán một truyện ngắn cho Modern Romance. Các tác phẩm đầu tiên này phản ánh rõ nét cá tính của hai người – Frank là tuýp người phiêu lưu, mạnh mẽ, nam tính và Beverly là một người lãng mạn, cực kỳ nữ tính và dịu dàng.
Hơn 2 thập kỷ, cuộc sống của Frank và Beverly không hề dễ dàng bởi những khó khăn tài chính. Để tạo ra thu nhập cho gia đình cũng như giúp Frank có được sự tự do mà ông cần để viết lách, Beverly đã phải từ bỏ công việc sáng tạo của mình. Dune saga không chỉ là sản phẩm của riêng Frank, bởi ông thảo luận mọi chi tiết với Beverly, và chính Beverly là người đã chỉnh sửa chúng.

Dune bị gần hai mươi nhà xuất bản từ chối và chỉ có Chilton – một nhà xuất bản nhỏ lúc bấy giờ dám chấp nhận. Công sức của hai vợ chồng đã được trả xứng đáng khi Dune được giới phê bình ca ngợi hết lời và chiến thắng giải Nebula. Beverly cuối cùng cũng được hưởng quả ngọt sau 20 năm tận tuỵ. Nhưng sau đó bà bị ung thư phổi, chiến đấu với căn bệnh này trong 10 năm và qua đời vào năm 1984.
Lời đề tặng mà Frank dành cho Beverly rất xúc động và tràn đầy yêu thương. Đó là những hồi ức tươi đẹp về lễ cưới đơn giản của hai người tại Seattle, tuần trăng mật tại Rừng Quốc Gia Núi Baker-Snoqualmie, về cuộc hôn nhân tuy gặp nhiều khó khăn về tài chính nhưng vẫn vô cùng hạnh phúc và về chính Beverly – một người phụ nữ dịu dàng, tận tuỵ, luôn đầy cảm hứng và niềm tin, dũng cảm đối mặt với mọi khó khăn trong cuộc sống, bao gồm bệnh tật và cái chết.
Cô ấy biết rằng tôi sẽ khóc, và quả thực đã có rất nhiều nước mắt khi tôi viết những dòng này. Nhưng trong những ngày cuối đời, cô thường nói rằng khóc là điều vô ích. Cô nhận ra nước mắt như một phần trong nguồn gốc động vật của chúng ta. Một con chó sẽ tru lên sau khi mất chủ.
Bài hát vang lên trong lúc rải tro là lựa chọn của chính cô và nó đến từ những gì mà chúng tôi thường nói với nhau – rằng cô là cây cầu của tôi và tôi cũng là cây cầu của cô ấy. Đó là giá trị cốt lõi của cuộc hôn nhân này.
Có gì ngạc nhiên khi tôi nhìn lại những năm tháng chúng tôi bên nhau với niềm hạnh phúc không gì có thể diễn tả được? Có gì ngạc nhiên khi tôi không muốn hoặc không cần phải quên đi một khoảnh khắc nào? Hầu hết những người khác chỉ biết một phần nhỏ cuộc sống của cô ấy. Còn tôi đã chia sẻ nó theo những cách thân mật nhất và mọi điều cô ấy làm đã tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Nếu những năm trước đó cô ấy không tận tuỵ đến như vậy, đến mức không giữ lại bất cứ điều gì cho riêng mình, tôi đã không thể làm được những điều tôi cần làm trong mười năm cuối đời của cô, để tiếp thêm sức mạnh cho cô. Tôi xem đó là điều may mắn nhất và là đặc ân kỳ diệu nhất của đời mình.






Leave a comment