Có hai cụm từ trong tiếng Anh liên quan đến nước mắt mà tôi rất thích, bởi dù được giữ nguyên hay dịch sang tiếng Việt, hai cụm từ này đều rất gợi hình và gợi cảm.

Cụm từ thứ nhất là “on the verge of tears”, nghĩa là người ta xúc động đến mức lệ ở ngay khoé mắt nhưng vẫn chưa khóc được, dịch ra tiếng Việt là “nước mắt chực chờ rơi”.

Cụm từ thứ hai là “burst into tears”, là khi người ta đã không kiềm nén được nữa, tiếng Việt là “vỡ oà trong nước mắt”.

Tôi đã thực sự hiểu được hai cụm từ này khi xem Schindler’s List.

(Ảnh: Universal Pictures)

Cuộc mở màn cho bộ đôi huyền thoại

Sir Roger Deakins – bậc thầy của kỹ thuật điện ảnh từng nói rằng việc quay phim không phải là tạo ra những khung hình đẹp, mà là tạo ra những thước phim có thể duy trì được cảm xúc từ đầu đến cuối và không để lỡ mất một khán giả nào. Janusz Kamiński đã thực hiện điều đó thành công với Schindler’s List, khi mỗi khung hình đều mang ý nghĩa sâu sắc để tạo nên bộ phim chứa đựng sức nặng nội dung về Holocaust và ngôn ngữ điện ảnh giàu cảm xúc.

Nhưng tài năng của Janusz Kamiński thôi là chưa đủ. Có lẽ Kamiński sẽ mãi là cái tên vô danh tại Hollywood, hoặc phải chờ lâu hơn, và tiểu thuyết Schindler’s Ark của Thomas Keaneally sẽ không thể được đưa lên màn ảnh nếu không có Steven Spielberg. Về sau, Kamiński đã cùng Spielberg trở thành bộ đôi huyền thoại của làng điện ảnh và tạo ra hàng loạt bom tấn như The Lost World: Jurassic Park, Ready Player One hay The Fabelmans.

Vị cứu tinh, hồi ức và nước mắt

(Ảnh: Universal Pictures)

Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, Schindler’s List vẫn trụ vững trong danh sách những biểu tượng điện ảnh vĩ đại nhất. Universal Studios vốn dĩ đã muốn Steven Spielberg thực hiện Schindler’s List vào khoảng năm 1983 – khi ông chỉ mới 38 tuổi và đã gây được tiếng vang nhờ JawsIndiana Jones. Tuy nhiên, ông cảm thấy mình vẫn chưa đủ khả năng đảm nhận một dự án lớn như thế này và nhờ đến Roman Polanski. Nhưng Polanski từ chối và sau đó đã thực hiện một bộ phim cho riêng mình, cũng xoay quanh thời kỳ Holocaust, đó là The Pianist. Sydney Pollack và Martin Scorsese là hai đạo diễn tài năng khác mà Spielberg nghĩ đến, nhưng chính ông cũng không chắc chắn để họ cầm trịch dự án. 10 năm sau, Steven Spielberg mới đủ sẵn sàng để tự tay đạo diễn Schindler’s List và bắt đầu hành trình 72 ngày trên phim trường tại Kraków, Ba Lan.

Một điều quan trọng tôi nghĩ rằng không thể bỏ qua, đó là Steven Spielberg là người Mỹ gốc Do Thái. Vì thế, Schindler’s List là tác phẩm điện ảnh không chỉ được tạo nên từ câu chuyện có thật về vị cứu tinh của người Do Thái, mà còn từ hồi ức của và nước mắt của biết bao con người, bao gồm của cả vị đạo diễn. 72 ngày trên phim trường như sự tra tấn tinh thần đối với Spielberg, vì ông cũng là người gốc Do Thái, một tay tái hiện và tự mình chứng kiến những điều thảm khốc ngay trước mắt.

Có lẽ đó là lý do mỗi thước phim đều có thể chứa nhiều cảm xúc đến thế. Trừ những phút ít ỏi ở cảnh mở đầu và khoảng 10 phút cuối, phim mang sắc màu đen trắng ảm đạm, thể hiện không khí tang thương do chiến tranh gây ra. Phim mở đầu với ánh nến màu vàng trong buổi lễ Shabbat của một gia đình người Do Thái, và kết thúc bằng khoảnh khắc những người Schindlerjuden (những người Do Thái của Schindler) đặt những viên đá lên mộ của Schindler tại Jerusalem.

Kamiński tận dụng sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối để thể hiện vị thế khác nhau giữa Schindler và Stern, cái thiện và ác giữa Schindler và Goeth, hay những khung hình frame in frame để khắc họa những con người có chung số phận bị mắc kẹt bởi thời cuộc. Đặc biệt, những vùng tối (shadow) chính là ngôn ngữ điện ảnh của Kamiński để miêu tả lòng trắc ẩn và những hành động dũng cảm thầm lặng của Oskar Schindler. Và dĩ nhiên không thể bỏ qua sắc đỏ đầy ám ảnh của cô bé vô danh đã khơi dậy con người dũng cảm bên trong ông. Để rồi đến cuối phim, chiến tranh kết thúc và mặc dù đã cứu được 1.100 con người, ông vẫn gục xuống khóc nức nở khi không thể cứu được nhiều người hơn, dù chỉ là một.

(Ảnh: Universal Pictures)
(Ảnh: Universal Pictures)

Và còn một thứ kỳ diệu khác, đó chính là âm nhạc

Âm nhạc chính là mảnh ghép cực kỳ quan trọng để tạo nên kiệt tác điện ảnh này. Không bất ngờ khi Schindler’s List chiến thắng 7 giải Oscar, trong đó có giải Nhạc phim hay nhất dành cho John Willams – nhà soạn nhạc tài năng tạo nên những giai điệu tuyệt vời cho Star Wars, E.T và Indiana Jones.

Tuy vậy, khi đối mặt với một tác phẩm điện ảnh mang tầm vốc như Schindler’s List, Williams đã gần như bỏ cuộc và đề nghị Spielberg tìm một người khác. Dĩ nhiên vị đạo diễn không đồng ý. John Williams cuối cùng đã làm được và tạo nên một trong những soundtrack hay nhất mọi thời đại.

Song hành cùng những thước phim đen trắng, phần âm nhạc của Williams mang trên mình trọng trách phải khiến cho khán giả gần như câm lặng và níu giữ cảm xúc trong suốt hơn 3 tiếng đồng hồ. Vĩ cầm là nhạc cụ chính mà Williams sử dụng để tạo nên những giai điệu da diết và thê lương. Itzhak Perlman – nghệ sĩ vĩ cầm người Do Thái và cũng là một trong những nghệ sĩ vĩ đại nhất nửa sau thế kỷ 20, là người đã góp phần biến những giai điệu của Williams thành hiện thực. Theme for Schindler’s List do Williams biên soạn hay ca khúc dân gian Oyfn Pripetshik (On the Cooking Stove) trong trường đoạn quận của người Do Thái đang bị Đức Quốc xã phong tỏa là những giai điệu có thể khiến nước mắt chúng ta chực chờ rơi xuyên suốt bộ phim và không thôi ám ảnh khi phim đã khép lại từ bao giờ.

Schindler’s List bắt đầu bằng danh sách của những người Do Thái xấu số và kết thúc bằng danh sách của những con người sống sót. Danh sách này thật đẹp. Danh sách này là sự sống. Quanh lề của nó chỉ là vực thẳm. Và nếu bạn hỏi tôi điện ảnh là gì, tôi trả lời đó là Schindler’s List.

Đây cũng là một tác phẩm điện ảnh khác tôi chấm 10/10. Ngoài ra nhờ phim này mà tôi biết tới Por Una Cabeza – một trong những giai điệu tôi phải nghe hàng ngày khi làm việc.

Leave a comment

Read more